Thứ Hai, 21 tháng 2, 2022

Metta-bhāvanā

Ahaṃ avero homi, abyāpajjo homi, anīgho homi, sukhī 

attānaṃ pariharāmi. 

Imasmiṃ mahāvijjālaye vasantā sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, 

sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ mahāvijjālaye ārakkhādevatā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ nagare vasantā sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ nagare ārakkhādevatā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu,
sukhī attānaṃ pariharantu. 

Amhākaṃ catupaccaya-dāyakā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Amhākaṃ veyyāvacca-karā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ raṭṭhe vasantā sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ raṭṭhe ārakkhādevatā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ sāsane ārakkhādevatā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ cakkavāḷe sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Imasmiṃ cakkavāḷe ārakkhādevatā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Puratthimāya disāya, pacchimāya disāya, uttarāya disāya, dakkhiṇāya disāya, puratthimāya anudisāya, pacchimāya anudisāya, uttarāya anudisāya, dakkhiṇāya anudisāya, heṭṭhimāya disāya, uparimāya disāya, sabbe sattā, sabbe pāṇā, sabbe bhūtā, sabbe puggalā, sabbe attabhāvapariyāpannā; sabbā itthiyo, sabbe purisā, sabbe ariyā, sabbe anariyā, sabbe devā, sabbe manussā, sabbe vinipātikā, averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Từ Tâm Tu Tập

Nguyện cho tôi không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho tất cả chúng sanh đang sống tại trường Đại học này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư Thiên đang hộ trì trường Đại học này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho tất cả chúng sanh đang sống tại thành phố này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư Thiên đang hộ trì thành phố này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư thí chủ hỗ độ 4 nhu yếu phẩm của chúng tôi, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư vị phục vụ, công quả của chúng tôi, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho tất cả chúng sanh đang sống tại quốc độ này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư Thiên đang hộ trì quốc độ này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư Thiên đang hộ trì Chánh Pháp này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho tất cả chúng sanh đang sống trong vũ trụ này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho chư Thiên đang hộ trì vũ trụ này, không có sự thù hận, không có sự sân ác, không có sự khổ não, và tự hộ trì để được an lạc.

Nguyện cho tất cả chúng sanh, tất cả nhân loại, 

METTĀBHĀVANĀ – PHÁT TRIỂN TÂM TỪ – MEDITATION ON THE LOVING-KINDNESS


1. Ahaṃ avero homi, abyāpajjho homi, anīgho homi, sukhī attānaṃ pariharāmi. 
2. Imasmiṃ mahāvijjālaye (vihāre) vasantā sabbe sattā averā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.
3. Imasmiṃ mahāvijjālaye (vihāre) ārakkhadevatā averā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.
4. Imasmiṃ nagare vasantā sabbe sattā averā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.
5. Imasmiṃ nagare ārakkhadevatā averā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.
6. Amhākaṃ catupaccayadāyakā averā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Nghĩa Việt:

1. Cầu mong cho tôi không có oan trái, không có làm hại, không có khổ não, hãy tự giữ mình cho được sự an vui. 
2. Cầu mong cho tất cả chúng sanh đang sống trong đại học (tự viện) này không có oan trái, không có làm hại, không có khổ não, hãy tự giữ mình cho được sự an vui.
3. Cầu mong cho chư thiên đang hộ trì đại học (tự viện) này không có oan trái, không có làm hại, không có khổ não, hãy tự giữ mình cho được sự an vui. 

Thứ Năm, 6 tháng 1, 2022

Về Thân kiến, Sakkāyadiṭṭhi - Bhikkhu Anālayo

Về Thân kiến, Sakkāyadiṭṭhi
Bhikkhu Anālayo
(Bình Anson lược dịch)
Trong "Từ điển Bách khoa Phật giáo", Tập VIII, Colombo (2007)

“Thân kiến” (身見) hay “hữu thân kiến” (有身見) được dùng để dịch từ Pāli SAKKĀYADIṬṬHI, trong đó, SAT có nghĩa là “hiện hữu”, KĀYA là “thân”, DIṬṬHI là “cái nhìn, quan kiến”. Trong ngữ cảnh nầy, KĀYA không chỉ giới hạn trong cơ thể vật lý, SAKKĀYA mang ý nghĩa toàn thân, nhân thân, nhân tính, nhân cách. Vì thế, SAKKĀYADIṬṬHI có thể hiểu như là cái nhìn, quan niệm, quan kiến về thân bao quát. 

Theo kinh Hữu Thân (SN 22.105, Sakkāya-sutta), năm uẩn tác động bởi chấp thủ là những gì tạo nên bản sắc, nhân thân hoặc cá tính của một người. Nhân thân hay cá tính như thế nảy sinh do tham ái và sẽ chấm dứt khi tham ái được khắc phục, và con đường dẫn đến sự chấm dứt nhân thân là  đường thánh tám chi – Bát chi Thánh đạo. Con đường dẫn đến sự chấm dứt nhân thân ấy cũng là đường đưa đến chấm dứt dukkha, hoạn khổ (SN 22.40, kinh Con đường).

Thân kiến hay hữu thân kiến liên quan đến chuyển đổi từ ý thức bản năng của một cái “tôi” (ngã) tại cốt lõi của kinh nghiệm chủ quan thành một thực thể quan trọng và thậm chí siêu hình, là một hành động ‘nhận diện’ hoặc ‘nhân cách hóa’ để sinh ra khái niệm về tôi, ta (ngã), và từ đó phát triển thành một quan kiến chính thức.

1. NHỮNG BIỂU THỊ CỦA THÂN KIẾN

Như đề cập trong nhiều bài kinh, căn nguyên hình thành thân kiến dựa trên một trong hai mươi cách nhìn về tự ngã  (MN 44, Tiểu kinh Phương quảng). Hai mươi cách nhìn nầy là từ bốn cách nhìn về mỗi uẩn trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) như sau:

- uẩn nầy là tôi (ngã),
- tôi là chủ của uẩn nầy,
- uẩn nầy là một phần của tôi, 
- tôi ở trong uẩn nầy.

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2021

Chết do tai nạn tái sinh về đâu

Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigroda. Rồi Mahànàma đi đến, sau khi đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:


Kapilavatthu này, bạch Thế Tôn, rất phồn vinh, dân cư đông đúc, quần chúng chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy, con gặp con ngựa cuồng chạy, con gặp người cuồng chạy, con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy, con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy.


Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ đến  Phật,Pháp và Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sinh thú của con là gì, sinh xứ đời sau là chỗ nào?

Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2021

Bài 1: Citta – Tâm

Trong bài học này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về Tâm – Citta.

Trong Abhidhamma, đức Phật đã dạy về 4 thực tính tối hậu, mà trong Pali chúng được gọi là 4 paramattha dhammā.

-       4 paramattha dhammas đó là:

Citta – Tâm

Cetasika – Tâm sở

Rūpa – Sắc Pháp

Nibbāna – Niết Bàn 

Nếu bất kỳ chúng sanh nào, hoặc là hữu tình hay vô tình khi được chia chẻ ở những mức độ sâu nhất, chúng chỉ còn tìm thấy sự cấu thành chúng sanh chỉ có những pháp trên mà thôi.

Nếu là chúng sanh hữu tình thì chúng ta chỉ thấy có tâm, tâm sở và sắc pháp, còn đối với vô tình thì ta thấy chúng được tạo nên bởi những sắc pháp mà thôi. 

Về phần Nibbāna, là một thực tại, một chân lý tuyệt đối, mà chúng ta sẽ bàn thêm trong những phần sau.

Trong bài học này, nhiệm vụ chúng cần làm đó là ghi nhớ, học thuộc lòng phần mặt chữ, và cách phát âm của những từ Pali chính xác.

Pa ra mat tha sac ca 

Cit ta

Ce ta si ka

Rū pa

Nib bā na

 

 

 

 

 

 

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2021

Kinh Ví Dụ Tấm Vải - Con Đường Thanh Lọc Tâm

 Đạo Phật  nhấn mạnh về việc huấn luyện tâm ý, vì nó được ví như một bánh lái của một chiếc thuyền giữa biển khơi, đến được nơi chúng ta đến hay không là nhờ vào cách chúng ta chèo lái có đúng hướng, đúng cách hay không. 

 Ý dẫn đầu các pháp,     
Ý làm chủ, ý tạo;   
Nếu với ý ô nhiễm, 
Nói lên hay hành động,   
Khổ não bước theo sau,   
Như xe, chân vật kéo.

 

Ý dẫn đầu các pháp,       
Ý làm chủ, ý tạo;   
Nếu với ý thanh tịnh,       
Nói lên hay hành động,   
An lạc bước theo sau,      
Như bóng, không rời hình.

 (Kinh Pháp Cú  1 -2 – Phẩm Song Yếu)

Thứ Tư, 18 tháng 8, 2021

Thiền Tâm Từ (mettā bhāvanā)



Thiền sinh: Hình như thầy không khuyến khích việc thực hành thiền tâm từ. Thầy có cho rằng thiền
tâm từ là không thích hợp đối với các thiền sinh đang hành thiền vipassanā không?

Thiền sư: Không phải tôi nói rằng nó không thích hợp. Nhiều lúc nó rất có ích lợi đấy chứ. Thầy tôi cũng thường dạy tôi thực hành thiền tâm từ trong một số giai đoạn nhất định của pháp hành. Thực sự thì nó phụ thuộc vào cá nhân từng thiền sinh. Có rất nhiều pháp hành nhập môn lúc ban đầu cho thiền tập. Đối với một số người, Đức Phật dạy họ thiền tâm từ để bắt đầu bước vào thiền, nhưng Ngài cũng dạy những người khác bắt đầu từ thiền Tứ niệm xứ.
Khi thực hành thiền Tứ niệm xứ (thiền vipassanā), bạn phải thực hành với một cách suy nghĩ rằng: mình hành thiền không phải là để cố tạo nên một cái gì cả. Đừng cố tạo nên các kinh nghiệm, hãy tiếp nhận các kinh nghiệm hay những sự việc diễn ra đó như nó đang là và hãy cố gắng học hỏi từ nó.