Thứ Năm, 16 tháng 1, 2020


Rồi rừng thu sẽ tàn
Dòng sông kia cũng cạn
Nương thân về nẻo giác
Tâm tự khắc bình an...

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2020

Con đường Đức Phật: Bát Chánh Đạo

Sự phát triển của Bát chánh đạo dẫn đến mục tiêu của Giáo lý Đức Phật: chấm dứt khổ, dukkha. Như đã giải thích ở chương 2, Đức Phật dạy Tứ Thánh Đế: Sự thật của khổ, nguyên nhân của khổ, đó là tham ái, sự diệt khổ, đó là Niết Bàn, và con đường dẫn đến diệt khổ. Chúng ta đọc trong Tương Ưng Bộ kinh (Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Sự Thật, II, Phẩm Chuyển Pháp Luân, §1 Như Lai Thuyết) thấy rằng Đức Phật khi đang ngự ở tại Isipatana, trong vườn Nai đã nói với nhóm năm tỳ kheo như sau:
Có hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai?
Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020

Pháp hành (Bhāvanā) - Tỳ Kheo Hộ Pháp

PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ
PHÁP HÀNH (BHĀVANĀ)
•Pháp hành trong Phật giáo có 2 loại:
1- Pháp hành thiền định (Samathabhāvanā).
2- Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā).
•1- PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH (Samathabhāvanā)
Pháp hành thiền định là pháp hành làm cho tâm an trú trong một đề mục thiền định duy nhất, dẫn đến sự chứng đắc tuần tự 5 bậc thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc giới.
Pháp hành thiền định này đã có trước khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian. Theo tiểu sử Đức Phật Gotama, khi còn là Đức Bồ Tát Siddhattha, Ngài đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Ālāra Kalāmagotta về pháp hành thiền định, Ngài đã chứng đắc đến bậc thiền "Vô sở hữu xứ thiền"; và đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Ngài đã chứng đắc đến bậc thiền "Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền" bậc thiền tột đỉnh của thiền vô sắc giới, cũng là tột đỉnh của thiền tam giới.
Như vậy, pháp hành thiền định có trong Phật giáo và cũng có ngoài Phật giáo.
Định nghĩa thiền định
Thiền định là định tâm trong một đề mục thiền định duy nhất làm đối tượng, có khả năng chế ngự, làm vắng lặng được 5 pháp chướng ngại (nivaraṇa), bằng 5 chi thiền, làm cho tâm an định vững chắc trong một đề mục thiền định ấy, dẫn đến sự chứng đắc tuần tự 5 bậc thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc giới.

nghiệp quả

HỎI
Xin thầy giải thích thêm về nghiệp quả.
ĐÁP
Nghiệp là hành động. Nghiệp là sự dính mắc.Thân, khẩu, ý tạo nghiệp khi chúng ta dính mắc. Chúng ta tạo nên những thói quen, rồi chính những thói quen này khiến chúng ta đau khổ trong tương lai. Đây là kết quả của sự dính mắc của chúng ta, của những phiền não trong quá khứ của chúng ta.
Khi chúng ta còn trẻ, cha mẹ chúng ta thường khắt khe với chúng ta vì muốn giúp cho chúng ta. Chúng ta tức giận khi bị cha mẹ hay thầy cô rầy la, nhưng sau này chúng ta mới biết tại sao. Đó cũng giống như nghiệp báo. Giả sử bạn là một tên trộm trước khi trở thành một nhà sư. Bạn ăn cắp, và khiến cho cha mẹ buồn lòng. Nay bạn đã xuất gia tu hành, nhưng mỗi khi nhớ lại những việc sai quấy lúc xưa, bạn vẫn còn cảm thấy đau buồn. Hay giả bạn đã làm một việc tốt trong quá khứ và nay mỗi khi nhớ đến, bạn thấy vui vẻ, và tâm trạng vui vẻ này là kết quả của việc bạn làm trong quá khứ.

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020

Biết rõ việc mình đang làm


Trong bài kinh Tứ niệm xứ, Bốn lãnh vực quán niệm, đức Phật có dạy cho chúng ta cách thực tập chánh niệm như sau,

   “Khi đi, vị khất sĩ lại cũng ý thức rằng mình đang đi; khi đứng, ý thức rằng mình đang đứng; khi ngồi, ý thức rằng mình đang ngồi; khi nằm, ý thức rằng mình đang nằm. Bất cứ thân thể mình đang được sử dụng trong tư thế nào, vị ấy cũng ý thức được về tư thế ấy của thân thể…

    Khi đi tới hoặc đi lui, vị khất sĩ cũng biết rõ việc mình đang làm; khi nhìn trước nhìn sau, cúi xuống, duỗi lên, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi mặc áo, mang bình bát, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi ăn cơm, uống nước, nhai thức ăn, nếm thức ăn, vị ấy cũng chiếudụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi đại tiện, tiểu tiện, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, hoặc im lặng, vị ấy cũng biết rõ việc mình đang làm.”

Kinh Người Biết Sống Một Mình


Kinh Người Biết Sống Một Mình
Sau đây là những điều tôi được nghe lúc đức Thế Tôn còn lưu trú ở tịnh xá Kỳ Viên trong vườn Kỳ Ðà tại thành Xá Vệ; Ngài gọi các vị khất sĩ và bảo:
– Này quý thầy.
Các vị khất sĩ đáp:
– Có chúng con đây.
Ðức Thế Tôn dạy:
– Tôi sẽ nói cho quý thầy nghe thế nào là người biết sống một mình. Trước hết tôi nói đại cương, sau đó tôi sẽ giải thích. Quý thầy hãy lắng nghe.
– Thưa Thế Tôn, chúng con đang lắng nghe đây.
Ðức Thế Tôn dạy:

hơi thở ý thức

Sharon Salzberg  
 Tương truyền rằng khi còn là một cậu bé, đức Phật đã biết thực tập quán niệm hơi thở, và vào đêm thành đạo ngài đã thực hành theo phương pháp này trong lúc tĩnh tọa dưới cội bồ-đề. Anapana, tiếng Pali có nghĩa là có ý thức về hơi thở vào và hơi thở ra, là một trong những đề mục thiền quán cơ bản nhất mà đức Phật đã dạy.
Vào năm 1970, tôi đi sang Ấn Độ với mục đích duy nhất là để học thiền. Đến tháng giêng năm 1971, tôi tham dự một khóa thiền nhiều ngày lần đầu tiên. Tôi không có một chút kinh nghiệm gì về hành thiền hết, nhưng tôi có rất nhiều ý niệm về những phương pháp thực hành huyền bí, phức tạp mà tôi nghĩ rằng mình sẽ được chỉ dạy. Lời hướng dẫn đầu tiên cho tôi là có ý thức về hơi thở của mình. Sự đơn giản làm tôi giật mình.

thái độ của người hành thiền

Trong thế kỷ vừa qua, giới khoa học phương Tây đã có một khám phá lớn làm chấn động tất cả mọi người: Chúng ta là một phần của thế giới ta nhìn. Điều ấy có nghĩa là, chính sự quán sát của ta sẽ thay đổi đối tượng mà ta quán sát.
Ví dụ, hạt điện tử là một vật thể nhỏ bé nhất. Chúng ta không thể nào nhìn thấy nó bằng mắt thường. Và những khí cụ nào ta sử dụng để nhìn sẽ quyết định những gì ta nhìn thấy. Nếu ta nhìn một hạt điện tử, dưới một góc cạnh nó sẽ có những đặc tính của một hạt phân tử (particle), một viên banh bé tí nhảy theo những đường thật thẳng. Và khi ta nhìn nó dưới một góc cạnh khác, hạt điện tử ấy lại có đặc tính của một làn sóng (wave), nó rực sáng và nghiêng ngửa khắp nơi, không có một vẻ gì là đặc rắn hết. Một hạt điện tử là mộtsự kiện (event) hơn là một vật, và người quán sát tham gia vào sự kiện ấy bằng chính hành động quán sát của họ. Không có cách nào để tránh khỏi mối tương quan ấy.