Thứ Hai, 9 tháng 11, 2020

Tập đế

Hỏi: Cái gì là nhân của khổ?Đáp: Ái là nhân của khổ

Hỏi: Tại sao ái là nhân của khổ?Đáp: 
- Vì ái sinh ra chấp thủ vào các hành
- Vì chấp thủ các hành nên tạo tác nghiệp hữu
- Vì có nghiệp hữu nên phải đi tái sanh
- Vì tái sanh nên phải già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Vì thế ái là nguyên nhân của khổ.

Hỏi: Có bao nhiêu loại ái?
Đáp: Có ba loại ái:
- Dục ái: Tham ái với cảnh trần
- Hữu ái: Tham ái với cõi sống
- Vô hữu ái: Tham ái với sự ngộ nhận là không còn tồn tại gì sau khi chết

Hỏi: Tại sao chúng sinh lại tham ái với cảnh trần?
Đáp: Vì khi tiếp xúc với cảnh trần khởi lên sự tác ý sai lầm cho rằng:
- Cảnh trần là bền vững (Chấp thường)
- Cảnh trần là an vui (Chấp lạc)
- Cảnh trần thật tướng (Chấp ngã)
- Cảnh trần là tốt đẹp (Chấp tịnh)
Vì vậy mà chúng sinh tham ái với cảnh trần

Khổ đế

Hỏi: Khổ đế hiện hữu ở đâu?

Đáp: Ở thân, tâm
Hỏi: Thân khổ như thế nào?
Đáp: Sinh – già - bệnh - chết
Hỏi: Tâm khổ như thế nào?
Đáp: - Cầu mà không được
- Xa người yêu thương
- Gần người oán ghét
- Chấp thủ 5 uẩn
(Rồi sinh ra sầu, bi, khổ, ưu não)
Hỏi: Chúng sinh đang sống trong sự hạnh phúc ở thế gian thì có khổ không? Tại sao?
Đáp: - Có khổ
- Vì cái hạnh phúc đó vô thường, giả tạm
Hỏi: Hưởng thụ 5 dục là khổ hay lạc? Tại sao?
Đáp: - Là khổ
- Vì dục vui ít khổ nhiều; sự nguy hiểm càng nhiều hơn. Như người khát uống nước mặn, càng uống càng khát
Hỏi: Cái gì là hạnh phúc của người giác ngộ?
Đáp: Không bị dục tham thiêu đốt là hạnh phúc của người giác ngộ
Hỏi: Ai là người còn khổ? Ai là người hết khổ
Đáp: - Người hưởng dục thì còn khổ
- Người ly dục thì hết khổ

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020

Chánh niệm - TS Sayadaw U.Jokita

Nếu bạn đang cưỡi một con ngựa và bạn không thể điều khiển được nó thì điều gì sẽ xảy ra? Con ngựa có thể đưa bạn tới bất cứ nơi nào. Tâm của bạn cũng như thế. Bạn cần một sự điều khiển nhất định nào đó. Chánh niệm điều khiển tâm bạn một cách nhẹ nhàng. Nó rất nhẹ nhàng. Chánh niệm không phải là sự bắt buộc. Nó không ép buộc bạn. Khi bạn trở nên chánh niệm hơn, bạn càng trở nên thông minh hơn. Bạn sẽ có những quyết định tốt hơn trong mọi thứ. Cách mà bạn ăn, bạn ăn nhiều bao nhiêu, bạn ăn khi nào, bạn có thể quyết định. Ăn một cách chánh niệm, uống một cách chánh niệm, điều đó rất quan trọng. Nếu bạn dạy học, và nếu bạn dạy học sinh về chánh niệm, các học sinh sẽ học hành tốt hơn. Bạn có nghe nói về ADD bao giờ chưa? Attention Deficit Disorder: chứng rối loạn thiếu tập trung. Nhiều giáo viên chia sẻ với tôi rằng, nhiều học sinh không lắng nghe. Chúng luôn nhảy từ chuyện này sang chuyện khác. Chúng không chú ý. Và thật là khó khăn để bảo chúng lắng nghe bạn nói. Đó là chứng rối loạn thiếu tập trung.

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2020

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ Pāli Trong Cuốn Nghệ Thuật Chết

Trong bảng này là các thuật ngữ tiếng Pāli (và một số tiếng Hindi, Miến Điện) đã sử dụng trong sách.

ānāpāna – Thở, hô hấp; hít vào, thở ra. Thuật ngữ này thường 􏰀ược dùng như dạng viết tắt của ānāpāna-sati: niệm hơi thở, sự tỉnh giác nhận biết về hơi thở.

anattā – Không có tự ngã, vô ngã, không có tự tánh tự tồn tại, không có thực chất. Đây là một trong ba đặc tính cơ bản của các pháp, hai đặc tính khác là vô thường (anicca) và khổ (dukkha).

anicca – Vô thường. Một trong ba đặc tính cơ bản của các pháp, hai đặc tính khác là vô ngã (anattā) và khổ (dukkha).

arahant – A-la-hán, bậc giác ngộ; người đã dứt trừ hoàn toàn các lậu hoặc.

bhāva – Hữu, sinh thành, trở thành; sự tương tục của sự sống và cái chết.

bhāvanā – Sự phát triển tinh thần; thiền. Hai nhánh của thiền là chỉ, sự phát triển tính an định (śamatha-bhāvanā), tập trung tâm trí, định (samādhi); và quán, sự phát triển tuệ giác nội quán (vipassanā- bhāvanā), trí tuệ (paññā). Sự phát triển định dẫn đến các trạng thái thâm nhập sâu của tâm thức (jhāna); sự phát triển tuệ giác nội quán dẫn đến sự giải thoát.

bhāvatu sabba maṅgalaṃ – Lời cầu chúc tốt lành theo truyền thống, hiểu sát nghĩa là: “Mong cho hết thảy chúng sinh đều được tốt lành, hạnh phúc.”

bhikkhu – Tỳ-kheo, tăng sĩ; thiền giả.

Tứ Thánh Đế

 tứ diệu đế 

Về thôi...

“Về đi em đường xa gối mỏi,
Bụi trần gian vướng cũng nhiều rồi.
Cửa không mấy độ còn nguyên đó
Không thêm không bớt,
Một vầng trăng...”
#NTN

Bốn loại người

S. N. Goenka

(Dưới đây là bản dịch một bài viết của Goenkaji vào tháng 12 năm 2005 ấn hành bởi Vipaśyana Patrikā. Nó đã được điều chỉnh cho phù hợp với Bản tin)
Đức Phật nói: “Ta thấy có bốn loại người trong thế gian này. Loại thứ nhất đi từ bóng tối vào bóng tối. Loại thứ hai đi từ ánh sáng vào bóng tối. Loại thứ ba đi từ bóng tối ra ánh sáng. Và loại thứ tư đi từ ánh sáng đến ánh sáng.”
Đức Phật không nói những điều khó hiểu. Lời dạy của Ngài rõ ràng và được giải thích kỹ càng. Svākkhāto bhagavatā dhammo. Giáo pháp rõ ràng như thế. Bất cứ khi nào Ngài nói điều gì làm người nghe có thể hiểu theo ý khác, Ngài giải thích ngay. Cái gì là bóng tối? Cái gì là ánh sáng? Làm sao người ta cứ đi từ chỗ này tới chỗ kia?

  1. Từ bóng tối vào bóng tối:

    Tất cả mọi thứ xung quanh đều là bóng tối, một cuộc sống tối tăm, một cuộc đời đầy khổ đau. Có người đầy dẫy khổ đau trên nhiều phương diện – sức khỏe, tiền bạc, gia đình, xã hội. Không hề có bất kỳ một niềm hạnh phúc nào. Vậy mà người này không hề có dấu vết của trí tuệ bên trong. Vì vậy, mỗi giây phút, người này không tạo ra gì khác ngoài sự giận dữ, hận thù và ác ý.
“Tôi đau khổ bởi vì người này, vì sự cố này, vì lý do kia.” Người ấy đang tạo ra sân hận đối với một cá nhân hoặc một nguyên nhân nào đó. Nỗi đau khổ này là kết quả của nghiệp sân hận trong quá khứ, và giờ đây, người ấy đang tiếp tục gieo thêm nhiều hạt giống sân hận hơn nữa. Đã có quá nhiều tăm tối trong cuộc sống và người ấy lại đang gieo trồng thêm nhiều hạt giống của tối tăm. Những hạt giống của sự giận dữ, hận thù, và ác ý sẽ không mang lại gì khác ngoài khổ đau trong tương lai. Vì thế, tương lai cũng sẽ đầy đau khổ. Hiện tại là đau khổ và tương lai cũng là khổ đau. Hiện tại là bóng tối, tương lai cũng là bóng tối. Vì vậy, một người như thế đang đi từ bóng tối vào bóng tối.

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2020

Buông bỏ phiền não

Trong cuộc sống hàng ngày nhiều áp lực và va chạm, chúng ta thường khó tránh khỏi những bất đồng trong công việc, sinh hoạt hàng ngày, và các mối quan hệ ở gia đình, nơi làm việc. Khi xảy ra tranh cãi, ta có thể không kiềm chế được và nổi nóng hay nặng lời, ta có thể thắng hay thua cuộc tranh cãi, thường không dễ giữ được hòa khí… Kết quả là khiến chúng ta bị tổn thương hoặc gây tổn thương cho người khác. Thậm chí, sẽ cảm thấy chính bản thân mình trở nên đau đớn, mất niềm tin, rồi ân hận. Nhưng lời đã nói ra như bát nước hắt đi, ân hận lúc đó cũng đã muộn rồi. Những lúc như thế này, điều người ta cần làm là giữ bình tĩnh và loại bỏ sân si, biết buông bỏ những gì khiến ta cảm thấy bất an.

Ai cũng biết hạnh phúc được xây dựng trên nền tảng sự bình an và tự tại. Đây là ước mơ của cuộc đời mà con người chúng ta ai cũng mong mỏi đạt tới. Người ta sống trên đời thường không vui vì nhiều lý do. Nhưng chủ yếu nhất là ba nguyên nhân sau:
– Thứ nhất: Quen phóng đại hạnh phúc của người khác.
– Thứ hai: Quen phóng đại nỗi khổ của bản thân mình.
– Thứ ba: Quen mang nỗi khổ của bản thân mình ra so sánh với nỗi khổ của những người khác, đem khuyết điểm của mình ra so sánh với ưu điểm của người khác.

Lưỡi dao của người Eskimo

Những người Eskimo lấy các lưỡi dao thật sắc đem nhúng vào máu động vật, sau đó họ mang ra ngoài trời cho đóng băng lại

Họ làm như vậy nhiều lần để lớp băng càng lúc càng dày thêm, đến một thời điểm mà lớp băng bằng máu bên ngoài hoàn toàn che đậy được lưỡi dao bên trong.

Tối đến, họ cắm cán dao xuống tuyết. Những con chó sói đánh hơi được mùi của thú rừng từ lưỡi dao và mon men đến.

Chúng bắt đầu liếm những lớp băng bằng máu đó, càng lúc càng hăng say hơn, với tất cả những sự thèm thuồng. Cho đến một lúc những lớp băng bên ngoài lưỡi dao đã tan chảy hết và chạm đến lưỡi dao. Khi liếm những lưỡi dao, lưỡi của những con chó sói bị đứt và máu chảy ra, nhưng chúng lại tưởng đó là máu của thú rừng nền càng liếm hăng say hơn.

Càng chảy máu thì nó càng khát, và càng khát thì nó lại càng liếm… Sáng hôm sau, những Eskimo chỉ việc đi thu lượm xác của những con chó sói nằm chết bên cạnh những lưỡi dao đó.


 

“Bên ngoài một chiếc bẫy bao giờ cũng là những điều tuyệt vời đầy hấp dẫn.”

Từ trước đến nay chúng ta đã muốn bao nhiêu thứ và đã làm bao nhiêu việc và sẽ còn tiếp tục ham muốn, tiếp tục làm cho đến lúc chết.

Làm thì tất nhiên phải xác định kết quả mình muốn đạt được. Nhưng lúc nào cũng để kết quả che kín trước mặt đến nỗi mất đi cả tầm nhìn lớn về con đường của đời mình thì sa xuống hố lúc nào chẳng hay. Bẫy của cuộc đời thật quá nhiều và luôn quá ngọt ngào, quá khó để ngoảnh mặt quay đi.

Tâm tham vô cùng xảo quyệt, tinh ranh. Nó lừa bán chúng ta mà chúng ta vẫn còn vui vẻ giúp nó đếm tiền.

Hãy cảnh giác hỡi những con người đi tìm con đường thoát khổ. Hành trình muôn vàn ngả rẽ, chỉ có một lối đi trong đó là dẫn đến đích. Các ngả rẽ đều ngọt ngào và hấp dẫn, với đủ biển hiệu quảng cáo khó chối từ. Nhưng hãy lật mặt sau các biển hiệu đó mà xem trước khi quyết định bước vào, tất cả chúng đều có chung 1 cái  tên mà  thôi: THAM

Tham danh, tham lợi, tham đạo quả, tuệ giác, tầng thiền, tham xây dựng hình ảnh, bản ngã, tham dục, tham bình an, tham tĩnh lặng, tham hỷ lạc, tham “chánh niệm tốt, thiền sâu”…., tham quyền lực, tham muốn chi phối người khác, tham muốn nắm giữ các cảm xúc, tham giữ các suy nghĩ của mình, những cái mình cho là đúng, là hay…tham cái đẹp, tham tài, tham sắc, tham tuổi trẻ, tham kích thích, tham thông tin, tham đọc, tham nghe, tham nói, tham giải trí, tham công việc…tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ, vui chơi, tham màu sắc, âm thanh,  mùi vị…

Đọc rõ từng cái tham khi nó có mặt trong tâm. Thấy nó là tham thì từ bỏ, nếu bạn đủ đức tin vì nghe lời bậc trí. Nếu không đủ đức tin để dứt bỏ, hãy nếm thử vị ngọt, vị đắng và hậu quả của nó với chánh niệm, hãy trả giá để hiểu rõ nó và từ bỏ. 

Thứ Ba, 29 tháng 9, 2020

Lời Kinh trong lòng bàn tay

Lời Kinh trong lòng bàn tay:
"Toàn bị người đời chê trách, hay toàn được người đời khen ngợi; đó là điều mà quá khứ chưa từng có, hiện tại không dễ gì tìm ra và mãi mãi sau này cũng không dễ gì thấy được".(1)

Hòn đất nhỏ bên đường, có bé nhỏ đến đâu, cũng sẵn lòng cưu mang một vài hạt cỏ dại xa lạ mà cơn gió mải chơi ngang qua vô tình đánh rơi không biết, cẩn thận cất vào lòng, chờ mùa sau cơn gió trở lại mang đi.
Có lòng người, đôi khi, còn bé nhỏ và khô cằn hơn hòn đất nhỏ bên đường, không nuôi dưỡng nổi hạt giống thiện của chính mình, của người sao nuôi được?!

Nên giữa những người thân quen có dằn vặt ghét bỏ nhau cả đời cũng là chuyện bình thường.
Lòng người hẹp...

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2020


Rồi rừng thu sẽ tàn
Dòng sông kia cũng cạn
Nương thân về nẻo giác
Tâm tự khắc bình an...

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2020

Con đường Đức Phật: Bát Chánh Đạo

Sự phát triển của Bát chánh đạo dẫn đến mục tiêu của Giáo lý Đức Phật: chấm dứt khổ, dukkha. Như đã giải thích ở chương 2, Đức Phật dạy Tứ Thánh Đế: Sự thật của khổ, nguyên nhân của khổ, đó là tham ái, sự diệt khổ, đó là Niết Bàn, và con đường dẫn đến diệt khổ. Chúng ta đọc trong Tương Ưng Bộ kinh (Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Sự Thật, II, Phẩm Chuyển Pháp Luân, §1 Như Lai Thuyết) thấy rằng Đức Phật khi đang ngự ở tại Isipatana, trong vườn Nai đã nói với nhóm năm tỳ kheo như sau:
Có hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai?
Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020

Pháp hành (Bhāvanā) - Tỳ Kheo Hộ Pháp

PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ
PHÁP HÀNH (BHĀVANĀ)
•Pháp hành trong Phật giáo có 2 loại:
1- Pháp hành thiền định (Samathabhāvanā).
2- Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā).
•1- PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH (Samathabhāvanā)
Pháp hành thiền định là pháp hành làm cho tâm an trú trong một đề mục thiền định duy nhất, dẫn đến sự chứng đắc tuần tự 5 bậc thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc giới.
Pháp hành thiền định này đã có trước khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian. Theo tiểu sử Đức Phật Gotama, khi còn là Đức Bồ Tát Siddhattha, Ngài đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Ālāra Kalāmagotta về pháp hành thiền định, Ngài đã chứng đắc đến bậc thiền "Vô sở hữu xứ thiền"; và đã từng thọ giáo với vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Ngài đã chứng đắc đến bậc thiền "Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền" bậc thiền tột đỉnh của thiền vô sắc giới, cũng là tột đỉnh của thiền tam giới.
Như vậy, pháp hành thiền định có trong Phật giáo và cũng có ngoài Phật giáo.
Định nghĩa thiền định
Thiền định là định tâm trong một đề mục thiền định duy nhất làm đối tượng, có khả năng chế ngự, làm vắng lặng được 5 pháp chướng ngại (nivaraṇa), bằng 5 chi thiền, làm cho tâm an định vững chắc trong một đề mục thiền định ấy, dẫn đến sự chứng đắc tuần tự 5 bậc thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc giới.

nghiệp quả

HỎI
Xin thầy giải thích thêm về nghiệp quả.
ĐÁP
Nghiệp là hành động. Nghiệp là sự dính mắc.Thân, khẩu, ý tạo nghiệp khi chúng ta dính mắc. Chúng ta tạo nên những thói quen, rồi chính những thói quen này khiến chúng ta đau khổ trong tương lai. Đây là kết quả của sự dính mắc của chúng ta, của những phiền não trong quá khứ của chúng ta.
Khi chúng ta còn trẻ, cha mẹ chúng ta thường khắt khe với chúng ta vì muốn giúp cho chúng ta. Chúng ta tức giận khi bị cha mẹ hay thầy cô rầy la, nhưng sau này chúng ta mới biết tại sao. Đó cũng giống như nghiệp báo. Giả sử bạn là một tên trộm trước khi trở thành một nhà sư. Bạn ăn cắp, và khiến cho cha mẹ buồn lòng. Nay bạn đã xuất gia tu hành, nhưng mỗi khi nhớ lại những việc sai quấy lúc xưa, bạn vẫn còn cảm thấy đau buồn. Hay giả bạn đã làm một việc tốt trong quá khứ và nay mỗi khi nhớ đến, bạn thấy vui vẻ, và tâm trạng vui vẻ này là kết quả của việc bạn làm trong quá khứ.

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020

Biết rõ việc mình đang làm


Trong bài kinh Tứ niệm xứ, Bốn lãnh vực quán niệm, đức Phật có dạy cho chúng ta cách thực tập chánh niệm như sau,

   “Khi đi, vị khất sĩ lại cũng ý thức rằng mình đang đi; khi đứng, ý thức rằng mình đang đứng; khi ngồi, ý thức rằng mình đang ngồi; khi nằm, ý thức rằng mình đang nằm. Bất cứ thân thể mình đang được sử dụng trong tư thế nào, vị ấy cũng ý thức được về tư thế ấy của thân thể…

    Khi đi tới hoặc đi lui, vị khất sĩ cũng biết rõ việc mình đang làm; khi nhìn trước nhìn sau, cúi xuống, duỗi lên, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi mặc áo, mang bình bát, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi ăn cơm, uống nước, nhai thức ăn, nếm thức ăn, vị ấy cũng chiếudụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi đại tiện, tiểu tiện, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, hoặc im lặng, vị ấy cũng biết rõ việc mình đang làm.”

Kinh Người Biết Sống Một Mình


Kinh Người Biết Sống Một Mình
Sau đây là những điều tôi được nghe lúc đức Thế Tôn còn lưu trú ở tịnh xá Kỳ Viên trong vườn Kỳ Ðà tại thành Xá Vệ; Ngài gọi các vị khất sĩ và bảo:
– Này quý thầy.
Các vị khất sĩ đáp:
– Có chúng con đây.
Ðức Thế Tôn dạy:
– Tôi sẽ nói cho quý thầy nghe thế nào là người biết sống một mình. Trước hết tôi nói đại cương, sau đó tôi sẽ giải thích. Quý thầy hãy lắng nghe.
– Thưa Thế Tôn, chúng con đang lắng nghe đây.
Ðức Thế Tôn dạy:

hơi thở ý thức

Sharon Salzberg  
 Tương truyền rằng khi còn là một cậu bé, đức Phật đã biết thực tập quán niệm hơi thở, và vào đêm thành đạo ngài đã thực hành theo phương pháp này trong lúc tĩnh tọa dưới cội bồ-đề. Anapana, tiếng Pali có nghĩa là có ý thức về hơi thở vào và hơi thở ra, là một trong những đề mục thiền quán cơ bản nhất mà đức Phật đã dạy.
Vào năm 1970, tôi đi sang Ấn Độ với mục đích duy nhất là để học thiền. Đến tháng giêng năm 1971, tôi tham dự một khóa thiền nhiều ngày lần đầu tiên. Tôi không có một chút kinh nghiệm gì về hành thiền hết, nhưng tôi có rất nhiều ý niệm về những phương pháp thực hành huyền bí, phức tạp mà tôi nghĩ rằng mình sẽ được chỉ dạy. Lời hướng dẫn đầu tiên cho tôi là có ý thức về hơi thở của mình. Sự đơn giản làm tôi giật mình.

thái độ của người hành thiền

Trong thế kỷ vừa qua, giới khoa học phương Tây đã có một khám phá lớn làm chấn động tất cả mọi người: Chúng ta là một phần của thế giới ta nhìn. Điều ấy có nghĩa là, chính sự quán sát của ta sẽ thay đổi đối tượng mà ta quán sát.
Ví dụ, hạt điện tử là một vật thể nhỏ bé nhất. Chúng ta không thể nào nhìn thấy nó bằng mắt thường. Và những khí cụ nào ta sử dụng để nhìn sẽ quyết định những gì ta nhìn thấy. Nếu ta nhìn một hạt điện tử, dưới một góc cạnh nó sẽ có những đặc tính của một hạt phân tử (particle), một viên banh bé tí nhảy theo những đường thật thẳng. Và khi ta nhìn nó dưới một góc cạnh khác, hạt điện tử ấy lại có đặc tính của một làn sóng (wave), nó rực sáng và nghiêng ngửa khắp nơi, không có một vẻ gì là đặc rắn hết. Một hạt điện tử là mộtsự kiện (event) hơn là một vật, và người quán sát tham gia vào sự kiện ấy bằng chính hành động quán sát của họ. Không có cách nào để tránh khỏi mối tương quan ấy.